Năng lượng tái tạo Việt Nam năm 2022: Các sự kiện, thành tựu và nhận diện thách thức

 Trong năm 2022, mặc dù gặp rất nhiều thách thức, nhưng ngành năng lượng tái tạo ở Việt Nam đã đạt được những cột mốc mới. Cạnh đó, rất nhiều hoạt động sự kiện, nghiên cứu, trao đổi thông tin kiến thức về chuyên ngành này cũng đã được tiến hành trong bối cảnh cần phải tiếp tục tìm kiếm các giải pháp và chính sách để thúc đẩy phát triển mạnh hơn nữa. Từ thực tiến cho thấy, triển vọng và mục tiêu phát triển là rất lớn, nhưng chúng ta cần phải có giải pháp đột phá để đưa năng lượng tái tạo trở thành nguồn cung cấp quan trọng trong tương lai… Tổng hợp, phân tích, nhận diện khó khăn, thách thức của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam về chuyên ngành này.
Mười sự kiện nổi bật của ngành năng lượng Việt Nam năm 2022Mười sự kiện nổi bật của ngành năng lượng Việt Nam năm 2022
Việt Nam phát triển điện gió ngoài khơi: Tiềm năng, thách thức và kế hoạch hành độngViệt Nam phát triển điện gió ngoài khơi: Tiềm năng, thách thức và kế hoạch hành động

1. Thành tựu đạt được trong năm 2022 và các sự kiện đáng nghi nhớ về năng lượng tái tạo:

Trong năm 2022, năng lượng tái tạo (bao gồm thủy điện, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối), mặc dù các điều kiện ưu đãi về cơ chế mua điện FIT (cơ chế khuyến khích phát triển của Chính phủ) đều đã hết hiệu lực, vẫn tiếp tục phát triển và các công việc chuẩn bị đầu tư, hoàn thiện các dự án… Ước tính đến hết tháng 12/2022, sản lượng điện phát của năng lượng tái tạo (NLTT) dự kiến đạt được 130 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng gần 48% sản lượng điện phát của hệ thống điện Việt Nam, trong đó [1], 35% là thủy điện và 13% là của điện gió, mặt trời và sinh khối (xem hình 1). Tỷ trọng phát điện của NLTT không ngừng tăng cao và tốc độ rất nhanh trong cơ cấu phát điện của hệ thống điện Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2022, từ 27% vào năm 2010 lên hơn 48% vào năm 2022, đặc biệt với sự đóng góp rất lớn từ điện gió, mặt trời vào các năm 2019 – 2022 (xem hình 2).

Năng lượng tái tạo Việt Nam năm 2022: Các sự kiện, thành tựu và nhận diện thách thức
Năng lượng tái tạo Việt Nam năm 2022: Các sự kiện, thành tựu và nhận diện thách thức

Tuy nhiên, cũng cần chỉ ra rằng: Sự tăng trưởng sản lượng điện sản xuất của năm 2022 so với năm 2021 chủ yếu đến từ sự tăng sản lượng của thủy điện do điều kiện khí tượng thủy văn thuận lợi (83% sản lượng NLTT gia tăng so với năm 2021 là đến từ thủy điện), điện gió có đóng góp tương đối cho sự gia tăng sản lượng điện phát (ước đạt 8,8 tỷ kWh năm 2022 so với 3,3 tỷ kWh năm 2021 của điện gió).

Trong bối cảnh điện gió, mặt trời gặp nhiều khó khăn do không còn cơ chế hỗ trợ giá mua điện, điện rác thải trong năm 2022 là một điểm sáng, đã có sự phát triển đáng kể với công suất phát điện tính đến 11/2022 là khoảng 60 MW so với 7,5 MW của năm 2021, trong đó có thể kể đến:

– Dự án Nhà máy điện rác Seraphin khởi công ngày 30/3/2022, tại Khu xử lý Chất thải rắn Xuân Sơn, Sơn Tây, Hà Nội. Đây là dự án xử lý điện rác thứ hai ở Hà Nội, cũng là dự án đầu tiên sử dụng công nghệ lò ghi cơ học vừa đốt rác, vừa phát điện do chính doanh nghiệp Việt Nam đầu tư. Nhà máy điện rác Seraphin 37 MW là một trong những dự án quan trọng của Thủ đô Hà Nội, có công suất xử lý 1.500 tấn rác khô/ngày, vốn đầu tư 3.500 tỷ đồng. Với công suất đó, Nhà máy sẽ giúp giảm tỷ lệ chôn lấp rác của Thủ đô từ 100% xuống 3%. Hợp đồng PPA đã được ký.

– Nhà máy điện rác Sóc Sơn, công suất xử lý 4.000 tấn rác khô mỗi ngày, tổng công suất dự kiến 75 MW, bắt đầu vận hành tổ máy số 1 công suất 15 MW vào 25/7/2022, sau nhiều lần trì hoãn.

Ngoài ra còn hàng loạt các nhà máy điện rác công suất nhỏ được khởi công xây dựng, hoặc chuẩn bị đưa và vận hành tại Bắc Ninh, TP HCM, Hải Phòng, Đồng Nai…

Điện sinh khối cũng được đẩy mạnh phát triển trong năm 2022, trong đó có thể kể đến các dự án được khởi công, hoàn thiện thủ tục đầu tư trong năm như: Điện sinh khối Hậu giang 20 MW, điện sinh khối Trà Vinh 25 MW, cùng hàn loạt các dự án điện sinh khối khác được đề xuất xây dựng tại Quảnh Bình, Yên Bái, Đắc Lắc, Thanh Hóa.

Một trong các sự kiện nổi bật của 2022 là Diễn đàn Thượng đỉnh Năng lượng bền vững Việt Nam – Đan Mạch, đã có 14 bản ghi nhớ giữa các doanh nghiệp Đan Mạch và Việt Nam được ký kết với sự chứng kiến của Thái Tử Kế vị và Công nương Đan Mạch, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An và các đại diện các bộ, ngành Việt Nam. Năng lượng gió ngoài khơi và sử dụng năng lượng hiệu quả đóng vai trò quan trọng hỗ trợ các nỗ lực của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp. Đây cũng là hai lĩnh vực mà các doanh nghiệp Đan Mạch có những giải pháp và công nghệ hàng đầu đã được kiểm chứng trong thực tế. Việt Nam và Đan Mạch đang có cùng chí hướng phát triển năng lượng tái tạo. Việc hợp tác giữa các doanh nghiệp góp phần giúp tìm ra được những giải pháp chung nhằm đem lại lợi ích và thịnh vượng cho cả hai quốc gia.

Một sự kiện khác cần được nhắc đến là trong 2 ngày (22 – 23/11/2022), Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) của Quốc hội và Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) đã phối hợp tổ chức Chương trình Đối thoại quốc gia: “Chuyển dịch năng lượng bền vững – quản trị, tài chính và công nghệ”. Đây là diễn đàn mở để các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý trong và ngoài nước trao đổi về kế hoạch, định hướng, thách thức trong quá trình chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện các cam kết về phát thải ròng, với sự tham gia của Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải và Đại sứ CHLB Đức tại Việt Nam Guido Hildner.

2. Khó khăn, thách thức:

Mặc dù điện gió có sự đóng góp đáng kể cho sản lượng điện phát trong năm 2022 so với 2021, năm 2022 cũng là một năm đặc biệt khó khăn cho các chủ đầu tư điện gió không kịp đóng điện kịp tiến độ sau khi quy định FIT hết hiệu lực. Giữa bối cảnh nguy cơ thiếu điện, đặc biệt ở miền Nam, thì có một nghịch lý là hàng loạt cột điện gió đã hoàn thành, sẵn sàng cung ứng điện để góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia lại rơi vào cảnh không được phép hoạt động.

Nhiều dự án điện gió được hoàn thành trong năm 2022 đã không được phép đấu nối bán điện lên hệ thống, do hết thời hạn có hiệu lực của Quyết định 39/2018 và Thông tư 02 về phát triển dự án điện gió [2]. Theo ước tính sơ bộ của chuyên gia: Khoảng 10 tỷ kWh hàng năm có thể được sản xuất cung cấp cho nhu cầu từ các dự án điện gió chưa được công nhận vận hành thương mại (COD) và nối lưới này, gây lãng phí, thiệt hại đáng kể cho các chủ đầu tư, cũng như hoạt động kinh tế của Việt Nam.

Trong nhiều tháng sau khi Quyết định 39/2018 hết hiệu lực, các cơ quan nhà nước, các đơn vị nghiên cứu chuyên môn và tư vấn cũng đã đưa ra nhiều đề xuất hướng giải quyết cho các dự án này (gọi chung là các dự án NLTT chuyển tiếp), tuy nhiên, chưa có cơ chế chuyển tiếp nào được định hướng rõ ràng.

Một tín hiệu tích cực cho các nhà đầu tư của các dự án NLTT chuyển tiếp là Khung giá phát điện cho NLTT theo Thông tư 15/2022/TT-BCT đã được Bộ Công Thương ban hành vào tháng 10 năm 2022 “Quy định phương pháp, trình tự xây dựng và ban hành khung giá phát điện cho các nhà máy điện mặt trời mặt đất, nhà máy điện mặt trời nổi, nhà máy điện gió trong đất liền, nhà máy điện gió trên biển”.

Thông tư này áp dụng với các đối tượng là các tổ chức, cá nhân tham gia triển khai đầu tư nhà máy, hoặc phần nhà máy điện mặt trời đã ký kết hợp đồng mua bán điện với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trước ngày 1//1/2021 và các nhà máy, hoặc phần nhà máy điện gió đã ký kết hợp đồng mua bán điện với EVN trước ngày 1/11/2021, nhưng không đáp ứng điều kiện áp dụng giá mua điện quy định tại Khoản 1, Khoản 3 Điều 5 Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 6/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế khuyến khích, phát triển điện mặt trời tại Việt Nam và Khoản 7 Điều 1 Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 26/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế khuyến khích phát triển điện gió tại Việt Nam.

Mặc dù có thông tư hướng dẫn trên và hiện đang được EVN, Cục Điều tiết Điện lực (ERAV) tích cực triển khai thu thập số liệu, tính toán, đánh giá kết quả sơ bộ và thẩm định, để tiến hành định giá trần – đây là một thách thức không nhỏ cho các chủ đầu tư NLTT do quá trình đàm phán giá bán điện này còn có thể kéo dài.

3. Gợi mở các giải pháp cho năng lượng tái tạo:

Hàng loạt các tọa đàm, hội thảo khoa học quốc tế được các tổ chức trong và ngoài nước, trong đó có Tạp chí Năng lượng Việt Nam tổ chức nhằm trao đổi các giải pháp, đề xuất các cơ chế hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho thúc đẩy phát triển NLTT. Các kiến nghị này đã được Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam tổng hợp, bổ sung và tập hợp trong thư kiến nghị gửi Thủ tướng (tóm tắt như dưới đây):

– Bộ Công Thương cần rà soát tiến độ các nguồn điện đưa vào vận hành hàng năm, thực hiện cân bằng công suất – điện năng, xác định quy mô (công suất và điện năng) các nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) cần đưa vào vận hành, phân bố theo các vùng, miền với mục tiêu mang lại hiệu quả cao nhất (khắc phục thiếu điện, giảm phát điện từ các nhà máy điện đốt dầu, giảm truyền tải điện giữa các miền và không gây quá tải cho lưới điện).

– Giá FIT chỉ áp dụng cho dự án điện năng lượng tái tạo quy mô nhỏ (khoảng vài MW) và điện mặt trời áp mái. Đối với các dự án có quy mô từ vài chục MW trở lên, thực hiện đàm phán mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị mua điện thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam với nhà đầu tư, đảm bảo dự án có thể thu hồi vốn và có mức lợi nhuận hợp lý.

– Đối với các dự án điện mặt trời mái nhà: Tăng quy mô công suất cho các dự án trong các khu công nghiệp, trung tâm thương mại. Các dự án điện mặt trời mái nhà được áp dụng theo cơ chế điện sản xuất ra được ưu tiên cấp cho nhu cầu tại chỗ, điện đấu nối với lưới điện quốc gia để bán điện dư và mua điện thiếu theo nhu cầu tiêu thụ.

– Nghiên cứu, ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn của các dự án điện năng lượng tái tạo.

– Tăng cường tìm kiếm nguồn tài chính xanh, tài chính khí hậu và chuyển giao công nghệ cho các dự án điện năng lượng tái tạo.

– Nghiên cứu, thực hiện các giải pháp để hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của điện gió, điện mặt trời do thay đổi phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên (tốc độ gió, bức xạ mặt trời). Các giải pháp cần thực hiện, gồm: Nâng cao độ chính xác của công tác dự báo thời tiết; kết hợp phát triển các nguồn thủy điện, thủy điện tích năng, tua bin khí đơn; phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn và đầu tư phát triển, cải tạo hệ thống lưới truyền tải; thực hiện quản lý phía cầu…

– Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nguồn năng lượng tái tạo, trong tất cả các khâu: Đào tạo cơ bản các cấp từ phổ thông đến đại học, dạy nghề; tiếp thu, tiến tới tự chủ về công nghệ, nâng cao khả năng chế tạo thiết bị thay thế.

– Ban hành cơ chế đặc thù trong việc sử dụng đất cho phát triển các dự án điện năng lượng tái tạo bao gồm:

(i) Thực hiện kết hợp phát triển các dự án điện năng lượng tái tạo với sản xuất nông nghiệp. Chủ đầu tư không phải thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất.

(ii) Chủ đầu tư các dự án điện năng lượng tái tạo thuê đất của các hộ nông dân để thực hiện dự án, giá thuê đất được điều chỉnh theo thỏa thuận giữa các bên.

– Nghiên cứu ban hành cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió ngoài khơi để sản xuất khí Hydro, khí Amoniac.

4. Triển vọng trong tương lai:

Với một tiềm năng được đánh giá là khá tốt cho phát triển NLTT (điện gió ngoài khơi hơn 450 GW, điện gió trên bờ hơn 210 GW, điện mặt trời 200 – 300 GW), triển vọng trong tương lai cho phát triển nguồn điện này là rất lớn. Theo các chuyên gia, NLTT tuy có tiềm năng lớn, tuy nhiên muốn khai thác cần phải có sự hỗ trợ trong một thời gian nữa.

Theo dự kiến kịch bản sơ bộ cho phát triển NLTT (Quy hoạch điện VIII, phần NLTT theo bản trình phê duyệt mới nhất ngày 16 tháng 12 năm 2022), Việt Nam có thể khai thác đến 50.000 MW công suất với sản lượng hơn 160 tỷ kWh từ NLTT vào năm 2030 và lên đến 260.000 MW vào năm 2050 [3], nếu có chính sách hỗ trợ hợp lý – đây là một đóng góp rất lớn cho nhu cầu của quốc gia về sản lượng điện và đảm bảo an ninh năng lượng. Và quan trọng hơn hết là sự phát triển này sẽ giảm thiểu sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu, giảm phát thải khí nhà kính, đảm bảo yếu tố phát triển bền vững, đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.

Một thông tin quan trọng có tác động lớn tới triển vọng phát triển của NLTT trong tương lai là vào ngày 14/12/2022, các nhà lãnh đạo của Việt Nam và Nhóm đối tác quốc tế, bao gồm Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Ý, Canada, Nhật Bản, Na Uy và Đan Mạch đã nhất trí về triển khai chương trình “Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng – JETP)”. Đối tác sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện mục tiêu Net Zero đầy tham vọng vào năm 2050, đẩy nhanh việc đạt đỉnh điểm phát thải khí nhà kính và chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng NLTT. JETP sẽ huy động khoản tài chính công và tư nhân ban đầu trị giá 15,5 tỷ USD trong vòng 3 đến 5 năm tới để hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh của Việt Nam. Tuy nhiên, chương trình JETP cũng có những yêu cầu cao hơn, thúc đẩy phát triển nhanh hơn nữa NLTT và giảm phát thải cao hơn, sớm hơn. Đây là một thách thức không nhỏ trong điều kiện kinh tế phát triển nóng, nhu cầu tiêu thụ điện và năng lượng nói chung tăng trưởng nhanh./.

NGUYỄN ANH TUẤN (B) – HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

[1] Để bạn đọc dễ so sánh, tỷ trọng NLTT trong sản lượng điện của nước Đức năm 2022 được ước tính khoảng 48,5% (bài trình bày của Dr. Nikole Glanemann, bộ KT và BĐKH Đức).

[2] Ước tính sơ bộ cho thấy khoảng gần 1/3 dự án điện gió trên tổng số đã đăng ký không thể về đích khi quyết định 39/2019 hết hiệu lực.

[3] Bao gồm thủy điện, gió, mặt trời, sinh khối, rác, tích năng lưu trữ.